Phòng phong theo như tên gọi là một vị thuốc rất hay được dùng để chữa các chứng bệnh do gió gây ra (phong là gió, phòng là phòng bị).
Trên thực tế, phòng phong không phải là một vị thuốc, mà là nhiều vị do nhiều cây khác nhau cung cấp. Chỉ kể một số cây chính:
– Xuyên phòng phong-(Radix Ligustici brachylobi) là rễ khô của cây xuyên phòng phong (Ligusticum brachylobum Franch) thuộc họ Hoa tán – Apiaceae (Umbelliferae).
– Phòng phong hay thiên phòng phong-(Radix Ledebouriellae seseloidis) còn gọi là đông phòng phong hay bàng phong là rễ khô của cây phòng phong (Ledebouriella seseloides H. Wolff.) cùng thuộc họ Hoa tán – Apiaceae (Umbelliferae).
– Vân phòng phong còn gọi là trúc diệp phòng phong (Radix Seseli) là rễ khô của cây phòng phong Vân Nam (Seseli delavayi Franch.) thuộc họ Hoa tán – Umbeliferae. Vân phòng phong còn do cây phòng phong lá thông (tùng diệp phòng phong – Seseli yunnanense Franch) cùng họ cung cấp nữa.
Ngoài những cây chính kể trên, có nhiều nơi còn dùng rễ những cây Carum carvi L., tiền hổ hoa trắng (Peucedanum praeruptorum Dunn), Siler divaricatum Benth. et Hook., Pimpinella candolleana Wright et Arn, v.v… đều thuộc họ Hoa tán.
– Vì vị phòng phong chủ yếu ta vẫn phải nhập của nước ngoài, do đó cũng cần chú ý kết quả không thống nhất do nguồn gốc vị thuốc không thống nhất.
Mô tả cây
– Cây xuyên phòng phong (Ligusticum brachylobum) là một cây sống lâu năm cao tới 1m. Từ gốc ra những lá có cuống dài 10-15cm, phía dưới cuống phát triển thành bẹ ôm lấy thân. Lá 2-3 lần xẻ lông chim. Cụm hoa hình tán kép gồm 25-30 tán nhỏ, dài ngắn không đều, dài từ 5- 8cm, mỗi tán nhỏ mang 25-30 hoa màu trắng. Quả kép gồm 2 phần quả, hình trứng dẹt không có lông, trên lưng có sống chạy dọc, giữa sống có 3 ống tinh dầu, mặt tiếp xúc có 5-6 ống tinh dầu, hai bên mép Phòng phong
Xuyên phòng phong phát triển thành cánh.
– Cây phòng phong hay thiên phòng phong (Ledebouriella seseloides) cũng là một cây sống lâu năm, cao 0.3-0.8m, lá mọc so le, có cuống dài, phía dưới cũng phát triển thành bẹ ốm vào thân, phiến lá xẻ lông chim 2-3 lần trông giống lá ngải cứu. Cụm hoa hình tán kép, mỗi tán kép có 5-7 tán nhỏ, cuống tán nhỏ không đều nhau. Mỗi tán nhỏ có 4-9 hoa nhỏ màu trắng. Quả kép gồm 2 phin quả, hai quả dính nhau trông như hình chuông; trên lưng quả có sống chạy dọc, giữa sống có một ống tinh dầu, mặt tiếp xúc giữa 2 phần quả có 1 ống tinh dầu.
– Cây vân phòng phong hay phòng phong lá tre-trúc diệp phòng phong (Seseli delavayi) là một cây sống lâu năm cao 0,3-0,5m, lá kép 2-3 lần xẻ lông chim có cuống dài, thùy lá giống lá tre dài 7-10cm, rộng 2-4cm, mép nguyên. Cụm hoa hình tán kép gồm 5-8 tán nhỏ, mỗi tán nhỏ gồm 10-20 hoa nhỏ có cuống dài ngắn không đều. Hoa màu trắng. Quả hình trứng dài màu tím nâu, trên lưng phân quả có sống chạy dọc, giữa sống quả có 3 ống tinh dầu, ở mặt tiếp xúc giữa 2 phân quả có 5 ống tinh dầu.
Phân bố, thu hái và chế biến
Như trên đã nói, phòng phong chưa thấy mọc ở nước ta. Ta vẫn còn phải nhập vị thuốc này ở Trung Quốc. Tại Trung Quốc xuyên phòng phong chủ yếu sản xuất ở Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam. Phòng phong chủ yếu sản xuất ở Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Nội Mông. Vân phòng phong chủ yếu sản xuất ở Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam.
Vào hai mùa xuân, thu, đào lấy rễ, cắt bỏ phần trên, phơi hay sấy khô là được.
Thành phần hoá học
Trong phòng phong (Ledebouriella seseloides) người ta đã thấy có các chất manit, những chất có tính chất phenola với độ chảy 92 oC, glucozid đắng và các chất đường.
Theo Ư Đạt Vọng, trong loại phòng phong (Siler divaricatum) có 0,05% tinh dầu.
Các loại phòng phong khác chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
Tác dụng dược lý
Năm 1942 (Trung Hoa dân quốc y học hội), Trung Xuyên Công Hải đã báo cáo dùng chất chiết từ vị phòng phong cho thỏ đã được gây sốt uống thì thấy có tác dụng hạ nhiệt.
Năm 1956 (Trung Hoa y học tạp chí, 10: 964-968) Tôn Thế Tích đã báo cáo dùng vacxin thương hàn tiêm tĩnh mạch thỏ để gây sốt rồi so sánh tác dụng giảm sốt của một số vị thuốc đông y thấy vị phòng phong do Ư Đạt Vọng xác định là Siler divaricatum chế thành thuốc sắc 20% (trọng lượng trên thể tích) và thuốc ngâm với liều 10mg cho 1kg thể trọng cho vào dạ dày thì nửa giờ sau khi cho thuốc, tác dụng giảm sốt rõ rệt.
Tác dụng giảm sốt của thuốc sắc có thể duy trì trên 2 giờ rười, nhưng ngược lại với thuốc ngâm thì sau 2 giờ nhiệt độ lại lên cao so với con vật làm chứng. Tôn Thế Tích còn cho rằng tác dụng giảm sốt của phòng phong không cao lắm.
Công dụng và liều dùng
Phòng phong còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi đông y.
Tính chất của phòng phong theo đông y là vị cay ngọt, tính ôn, không độc vào 5 kinh bàng quang, can, phế, tỳ và vị. Có tác dụng phát biểu tán phong, trừ thấp, là thuốc chữa cảm mạo biểu chứng ra mồ hôi, dùng chữa nhức đầu choáng váng, mắt mờ, trừ phong, đau các khớp xương. Ngày dùng 4 đến 10g dưới dạng thuốc sắc.
Đơn thuốc có phòng phong dùng trong đông y
Chữa thiên đầu thống (đau nhức một bên đầu): Phòng phong, bạch chỉ hai vị bằng nhau tán nhỏ, hòa với mật viên bằng quả táo, mỗi lần ngậm một viên, dùng nước chè mà chiêu thuốc.
Chữa triệu chứng khi ngủ ra mồ hôi trộm: Phòng phong 80g, xuyên khung 40g, nhân sâm 20g (có thể dùng đảng sâm). Các vị tán nhỏ, trộn đều; mỗi lần trước khi đi ngủ uống 10-12g bột này.
Bài thuốc chữa sơ phong giải biểu, thanh nhiệt tả hạ: Phòng phong 20g, Kinh giới 20g, Liên kiều 20g, Ma hoàng 20g, Bạc hà 20g, Xuyên khung 20g, Đương qui 20g, Bạch thược (sao) 20g, Bạch truật 20g, Hắc chi tử 20g, Đại hoàng (chưng rượu) 20g, Mang tiêu 20g, Thạch cao 40g, Hoàng cầm 40g, Cát cánh 40g, Cam thảo 80g, Hoạt thạch 120g. Cách dùng: Tất cả tán bột mịn, mỗi lần uống 6 – 8g với nước Gừng, sắc uống nước nóng, có thể dùng làm thuốc thang sắc uống.
(Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS Đỗ Tất Lợi)