Còn gọi là mạy môn (Thổ), dâu cang (Mèo), tầm tang.
Tên khoa học là Morus alba L. Morus acidosa Griff.
Thuộc họ dâu tằm Moraceae
Dâu tằm cung cấp cho ta những vị thuốc sau đây:
- Lá dâu – tang diệp (Folium Mori)
- Vỏ rễ cây dâu – tang bạch bì (Cortex Mori radicis)
- Quả dâu – tang thầm (Fructus Mori)
- Cây mọc ký sinh trên cây dâu – tang ký sinh (Ramulus Loranthi) thuộc họ tầm gửi (Loranthaceae)
- Tổ bọ ngựa trên cây dây – tang phiêu tiêu (Ootheca Mantidis)
- Sâu dâu – con sâu nằm trong thân cây dâu. Vốn là ấu trùng của một loài xén tóc.
Mô tả cây
Cây dâu có thể cao đến 15m, nhưng thường do hái lá luôn nên chỉ cao 2 – 3m. Lá mọc so le hình bầu dục, nguyên hoặc chia thành 3 thùy, có là kèm, đầu lá nhọn hay hơi tù, phía cuống lá hơi tròn hoặc đầu hơi bằng, mép có răng cưa to.
Hoa đơn tính, khác gốc, hoa đực mọc thành bông, có 4 lá dài, 4 nhị, hoa cái cũng mọc thành bông hay thành khối hình cầu, có 4 lá dài.
Quả bế bao bọc trong các lá đài, mọng nước thành một quả phức màu đỏ sau đen sẫm. Quả có thể ăn được và làm thuốc (tang thầm).
Phân bố thu hái và chế biến
Cây dâu tằm có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đã được di thực vào Việt Nam từ lâu, hiện nay được trồng ở khắp nơi để lấy lá nuôi tằm, một số bộ phận được khai thác dùng làm thuốc.
Thành phần hóa học
Trong lá dâu có caroten, tanin, rất ít tinh dầu, vitamin C, cholin, adenin, trigonelin. Ngoài ra còn có pentoza, đường, canxi malat và canxi carbonat
Trong vỏ rễ có những hợp chất flavon (mulberrin, mullberronchromen, xyclomulberrin và xyclomulberrochromen), acid hữu cơ, tanin, pectin và β-amyrin, rất ít tinh dầu.
Quả dâu có nước 84,71%, đường 9,19% (glucose, fructose), acid 1,80% (acid malic, acid sucxinic), protit 0,36%, tanin, vitamin C, carotin.
Tác dụng dược lý
Các tác giả Nhật Bản có cho thỏ uống nước sắc vỏ rễ cây dâu rồi theo dõi lượng đường trong máu thấy lúc mới uống vào, lượng đường trong máu tăng lên sau giảm dần.
Công dụng và liều dùng
– Tang bạch bì làm thuốc lợi tiểu, dùng trong bệnh thủy thủng, chữa ho lâu ngày, hen, ho có đờm, băng huyết, chữa sốt, cao huyết áp. Liều dùng hằng ngày 6 – 8g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
– Tang ký sinh bổ can thận, chữa đau lưng, đau mình, an thai, đẻ xong ít sữa. Liều dùng 12 – 20g dưới dạng thuốc sắc.
– Tang phiền tiêu lợi tiểu tiện. Chữa đi đái nhiều lần, di tinh, liệt dương, bạch đới, trẻ con đái dầm. Liều dùng 6 – 12g.
Sâu dâu chữa bệnh trẻ con bị đau mắt, nhiều dử, nhiều nước mắt. Cả con sâu nướng ăn hoặc ngâm rượu.
Theo tài liệu cổ:
Lá dâu có vị đắng, ngọt, tính hàn, vào hai kinh can và phế. Có tác dụng tán phong, thanh nhiệt lương huyết sáng mắt, dùng chữa phong ôn biếu chứng, lao nhiệt sinh ho, đầu nhức mắt đỏ, nước mắt chảy nhiều, hoa mắt.
Tang ký sinh: Vị đắng tính bình, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, an thai, làm cho xuống sữa. Dùng chữa gân xương đau nhức, động thai, đẻ xong không có sữa, lưng mỏi đau.
Cành dâu, (tang chi) vị đắng, tính bình, vào kinh can. Có tác dụng khử phong thấp, lợi quan tiết (khớp xương), dùng chữa phong hàn thấp tì, đau nhức, thuỷ khí, cước khí, chân tay co quắp.
Tang bạch bì: Vị ngọt, tính hàn, vào kinh phế. Có tác dụng tả phế hành thuỷ, chỉ thấu bình xuyễn, dùng chữa phế nhiệt sinh ho, ho ra máu, thuỷ thũng, bụng trướng. Những người phế hư nhưng không hoả và ho hàn thì không dùng được.
Tang thầm (quả dâu) vị ngọt chua tính ôn, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng bổ can, thận, nuôi máu, khứ phong, dùng chữa bệnh tiêu khát, loa lịch, mắt có màng, tai ù, huyết hư, tiện bí. Những người đại tiện tiết tả không dùng được.
Tổ bọ ngựa trên cây dâu (tang phiêu tiêu) có vị ngọt, mặn, tính bình, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng ích thận, cổ tinh dùng chữa di tinh, đái són, đái nhiều lần, kinh nguyệt bế, những người âm hư nhiều hoả, bàng quang nóng không dùng được.
Bài thuốc có các vị thuốc lấy từ cây dâu. (Các bài thuốc kinh nghiệm trong nhân dân)
- Tang bạch bì:
– Chữa ho ra máu: Tang bạch bì 600g. Ngâm nước vo gạo 3 đêm. Tước nhỏ. Cho thêm 250g gạo nếp. Sao vàng, tán nhỏ. Trộn đều. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần 8g chiêu bằng nước cơm.
– Ho lâu năm: Vỏ cây dâu-vỏ rễ cây chanh. Hai vị bằng nhau, mỗi thứ 10g sắc uống trong ngày.
– Trẻ con họ có đờm: Tang bạch bì 4g sắc với nước cho uống.
– Rụng tóc: Lấy tang bạch bì giã đập, ngâm nước. Đun sôi nửa giờ. Lọc, lấy nước đó gội đầu.
- Tang diệp:
– Chữa nôn ra máu: Lá dầu cuối màu, sao vàng sắc uống. Ngày uống 12-16g.
– Mụn nhọt lâu ngày không liền miệng Lá dâu sao vàng tán nhỏ, rắc vào mụn đã rửa sạch.
- Tang ký sinh:
Động thai đau bụng: Tang ký sinh 60g, giao (hoặc cao ban long) nướng thơm 20g, ngải diệp 20g, nước 3 bát (600ml). Sắc còn một bát (200ml). Chia nhiều lần uống trong ngày.
- Tang thầm:
– Chữa tràng nhạc: Tang thầm (loại quả đã chín đen) 2 bát đầy. Cho vào vải vắt lấy nước, cô thành cao mềm. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.
– Tóc không mọc-tóc bạc: Quả dâu ngâm nước, lọc lấy nước xát vào đầu.
- Tang phiêu tiêu: Động thai-bí tiểu tiện: Tang phiêu tiêu, nướng vàng tán nhỏ. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 5g.
(Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)