HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG14 min read

vong tron am duong

ĐẠI CƯƠNG

Học thuyết Âm dương

Học thuyết Âm dương là học thuyết giải thích sự vận động và biến hoá của vạn vật.

Học thuyết Âm dương thuộc triết học duy vật cổ đại phương Đông, là nền tảng tư duy và kim chỉ nam cho thầy thuốc y học cổ truyền.

Âm dương

Âm dương là danh từ, là khái niệm triết học để chỉ 2 mặt đối lập trong cùng bản thân sự vật và hiện tượng. Sự tương tác giữa hai mặt âm dương là nguồn gốc của sự vận động, biến hoá và tiêu vong của sự vật, hiện tượng đó.

Thuộc tính cơ bản của âm là: tối tăm, tĩnh, dục, nặng, lạnh lẽo, tiêu cực, thoái triển, mềm mại, hữu hình…

Thuộc tính cơ bản của dương là sáng sủa, động, trong, nhẹ, ấm áp, tích cực, phát triển, cứng rắn, vô hình.

Âm Dương
Trong tự nhiên Đất, nước, tối, lạnh, đàn bà, phía dưới, bên trong

Trời, lửa, sáng, nóng, đàn ông, cao, phía trên,bên ngoài

Trong xã hội

Tiểu nhân, ác, tiêu cực… Quân tử, thiện, tích cực…

Dựa vào những thuộc tính cơ bản, người ta phân định âm, dương.

 

CÁC QUI LUẬT ÂM DƯƠNG

Âm dương đối lập

Âm dương đối lập mà thống nhất, tồn tại trong mọi sự vật và hiện tượng tự nhiên.

Đối lập có nghĩa là mâu thuẫn, chế ước lẫn nhau, ví dụ: trên – dưới, trong – ngoài, vào – ra, đồng hoá – dị hoá, hưng phấn – ức chế, mưa – nắng, nóng – lạnh, trời – đất, thiện – ác. gầy – béo, cao – thấp, trắng – đen…

Đối lập có những mức độ

Đối lập tuyệt đối như: sống – chết nóng – lạnh.

Đối lập tương đối như: khoẻ – yếu, ấm – mát.

Mỗi sự vật, hiện tượng đều có 2 mặt âm dương. Tuy nhiên trong nội bộ âm dương còn có trong âm có dương, trong dương có âm: Trong dương có dương. Trong âm có âm.

Âm dương hỗ căn

Hồ là tương hỗ, căn là rễ, là gốc. Hỗ căn có nghĩa là tương tác nương tựa, giúp đỡ, thúc đẩy lẫn nhau trên cùng một gốc. Hai mặt âm dương tuy đối lập nhau nhưng phải nương tựa vào nhau mới tồn tại được (Đối lập trong một thể thống nhất). Ví dụ: Trong con người có quá trình đồng hoá và dị hoá. Có đồng hóa mới có dị hoá và dị hoá thúc đẩy đồng hóa.

Quá trình hưng phấn và ức chế là hai quá trình. Một hoạt động của hệ thần kinh, có hưng phấn thì phải có ức chế.

Âm dương tiêu trưởng

Nói lên sự vận động không ngừng, chuyển hoá lẫn nhau giữa hai mặt Âm dương để duy trì tình trạng thăng bằng tương đối của sự vật.

Âm và dương không cố định mà luôn biến động, khi tăng khi giảm theo chu kỳ hình Sin.

Thời sinh học ngày nay cũng đã khẳng định qui luật trên, vạn vật đều hoạt động theo “đồng hồ sinh học” từ cực tiểu đến cực đại rồi từ cực đại đến cực tiểu.

Âm, dương biến động đến mức cực đại thì chuyển hoá âm thành dương, dương thành âm. (Âm cực dương sinh, dương cực âm sinh).

Ví dụ:

– Sốt nóng quá cao sẽ dẫn đến co giật và sau đó cơ thể lại lạnh giá.

– Mùa xuân trời ấm áp dẫn đến mùa hè nóng bức là quá trình âm tiêu dương trưởng. Mùa thu trời mát dẫn đến mùa đông lạnh lẽo là quá trình dương tiêu, âm trưởng.

Âm dương bình hành

Âm dương đối lập, hỗ căn, tiêu trưởng nhưng bình hành để lập thế cân bằng của 2 mặt âm dương I

Bình hành là song song vận hành cùng nghĩa là cân bằng, bằng nhau. Cân bằng của học thuyết Âm dương là cân bằng động, cân bằng sinh học.

Âm dương bình hành trong quá trình tiêu trưởng và tiêu trưởng phải bình hành.

Ví dụ: Từ 12 giờ đêm thì dương sinh. Lúc này trời bắt đầu theo xu hướng sáng dần, bóng tối bắt đầu lui dần song song. Giữa trưa, khi dương cực thì âm sinh. lúc này khí hậu biến chuyển theo hướng mát dần, ánh sáng nhạt dần.

Biểu tương học thuyết Âm dương

Là hình đồ Thái cực: gồm

+ Vòng tròn to tượng trưng Thái cực

+ Nửa trắng là dương, nửa đen là âm (Lưỡng nghi).

+ Đường cong giữa phần đen và tiếp là đường cong Thái cực.

+ Vòng tròn nhỏ trắng trong phần đen là dương trong âm (Thiếu dương).

+ Vòng tròn đen trong phần trắng là âm trong dương (Thiếu âm).

– Đuôi nhỏ phần đen tiếp với đầu lớn phần trắng biểu hiện dương trưởng âm tiêu, đuổi nhỏ phần trắng tiếp nối đầu lớn phản đen biểu hiện âm trưởng dương tiêu.

Phần trắng và phần đen bao giờ cũng bằng nhau biểu hiện Âm dương luôn cần bằng trong quá trình tiêu trưởng.

ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN

Học thuyết Âm dương là nền tảng tư duy của y học cổ truyền, chỉ đạo toàn bộ từ lý luận đến thực tiễn lâm sàng, từ phòng bệnh đến chữa bệnh, từ chẩn đoán đến trị bệnh, từ dược lý đến bào chế, từ dùng thuốc đến các phương pháp điều trị không thuốc.

Phân định Âm dương trong cơ thể

Dựa theo thuộc tính cơ bản của âm, dương người ta phân định các bộ phận, các chức năng hoạt động của cơ thể theo từng cặp âm, dương.

Âm Dương
Tạng Tạng: tâm, tâm bào, can, tỳ, phế, thận.

Phủ: tiểu trường, tam tiêu, đởm, vị, đại trường, bàng quang.

Kinh lạc

Kinh âm: thiếu âm tâm, thận: thái âm phế, tỳ: quyết âm can, tâm bào. Kinh dương: dương minh vị, đại trường, : thái dương tiểu trường, bàng quang; thiếu dương, đởm, tam tiêu
Biểu lý Phần lý: ở trong, nội tạng

Phần biểu: ở ngoài, kinh lạc, da cơ

Khí huyết

Huyết Khí
Triệu chứng Âm chứng: thân nhiệt thấp.

Mạch nhỏ, chậm.

Tiếng nói nhỏ, thở yếu

Dương chứng: thân nhiệt cao.

Mạch to, nhanh

Tiếng noi to, thở mạnh

 

Trong tạng lại có tạng dương, tạng âm; trong ngay một tạng cũng có phần âm, phần dương. Trong một ngày từ bình minh đến giữa trưa là dương trong dương, từ giữa trưa đến chiều tối là âm trong dương, từ chập tối đến nửa đêm là âm trong âm, từ nửa đêm đến sáng là dương trong âm.

Chẩn đoán bệnh

Bệnh tật là biểu hiện của sự mất cân bằng âm dương trong cơ thể. Sự thiếu lệch có thể do một bên quá mạnh, thừa ứ (thiên thịnh) hoặc do một bên quá yếu, thiếu hụt (thiên suy).

– Thiên thịnh gồm âm thịnh hoặc dương thịnh.

– Thiên suy gồm âm hư hoặc dương hư.

– Âm hư sẽ dẫn đến dương hư, rồi cả hai đều hư.

– Âm thịnh thì dương suy.

Chẩn đoán bệnh là xác định bệnh ở phần ngoài (biểu) hay trong (lý), tính chất bệnh thuộc hàn hay nhiệt, và trạng thái bệnh thực hay hư, xu hướng bệnh là âm hay dương

Chữa bệnh

Nguyên tắc chữa bệnh là lập lại thế quân bình âm dương.

– Nếu thiên thịnh (thực chứng) phải dùng phép tả để loại bỏ phần thắng thịnh.

– Nếu thiên suy (hư chứng) phải dùng phép bổ để bù đắp vào chỗ thiếu hụt.

Hư thì bổ, thực thì tả.

Khi điều chỉnh sự thiên thịnh về hàn nhiệt trong cơ thể.

Hàn giả nhiệt chi, nhiệt giả hàn chi

Bệnh do hàn thì dùng thuốc nóng ấm, bệnh do nhiệt thì dùng thuốc mát để điều chỉnh,

Hàn ngộ hàn tắc từ, nhiệt ngộ nhiệt tắc cuồng.

Bệnh hàn cho thuốc mát lạnh sẽ nặng thêm có khi nguy hại. Bệnh nhiệt cho thuốc ấm nóng sẽ làm nóng thêm gây cuồng sảng

– Khi thế quân bình đã đạt thì ngừng và chỉ củng cố, duy trì, không nên tiếp tục kéo dài vì bổ dương nhiều (uống nhiều thuốc ấm nóng) sẽ làm tổn hại phần âm (hao tổn âm nhiệt), bổ âm nhiều sẽ tổn hại phần dương.

Phòng bệnh

Phòng bệnh là giữ gìn và bồi bổ chính khí, phải:

– Ăn uống, dinh dưỡng đủ lượng, đủ chất đáp ứng yêu cầu lao động và phát triển cơ thể. Ngoài ra cũng chú ý cân bằng hàn nhiệt, nếu ăn uống nhiều thứ cay nóng sẽ làm thương tổn âm dịch; nhiều thức ăn lạnh, sống sẽ làm thương tổn dương khí.

– Lao động và nghỉ ngơi xen kẻ hợp lý. Thức ngủ điều hoà.

– Trong rèn luyện thân thể phải chú ý luyện tâm với luyện thể, tập tĩnh xen kẻ tập động, nội công với ngoại công.

– Rèn luyện thích nghi với biến đổi của khí hậu, với điều kiện sống.

Chế thuốc

Phân định nhóm thuốc

Các cây, con vật dùng làm thuốc đều được phân thành nhóm dựa vào tính vị, hướng tác động của các vị thuốc.

  1. Dương dược

– Tính: nóng, ấm (ôn nhiệt).

– Vị: cay, ngọt, đạm.

– Hướng: thăng, phù (đi lên trên và ra ngoài).

  1. Âm dược:

– Tính: mát lạnh (hàn lương)

– Vị: đắng, chua, mặn.

– Hướng: giáng, trầm (di xuống dưới, lắng động).

 Bào chế

Muốn thay đổi tính được, mát thành ấm hoặc làm giảm bớt tính mạnh mẽ ta dùng những phụ dược có tính đối lập hàn nhiệt để bào chế thuốc.

Dùng lửa hoặc phụ dược có tính nóng như gừng, sa nhân để chuyển vị thuốc vốn tính mát lạnh thành thuốc ấm nóng.

Ví dụ: Chế Sinh địa tính mát thành Thục địa tính ấm người ta dùng rượu, gừng. Sa nhân tẩm vào Sinh địa rồi chưng sấy nhiều lần ta sẽ được Thục địa.

– Làm giảm tính lạnh của vị Trúc lịch khi dùng ta phải hoà vào nước gừng.

– Làm bớt tính mát lạnh còn dùng lửa như sao thuốc cho khô vàng, cháy sém…

Kết luận

Học thuyết. Âm dương là nền tảng tư duy của y học cổ truyền phương Đông, người thầy thuốc y học cổ truyền nhất thiết phải học học thuyết Âm dương.